Theo thống kế, tốc độ phát triển của mô hình này trên thế giới là 53%/năm trong 5 năm qua, đặc biệt nguồn cung coworking space tại Việt Nam đang tăng trung bình 58%/năm.
Nền kinh tế chia sẻ đã thay đổi phần nhiều thói quen của đời sống hiện đại. Giờ đây, ngày càng nhiều người ưu chuộng “đi xe chung” với Grab, Uber, thích chia sẻ “chỗ ở chung” khi đi du lịch qua Couchsurfing, Airbnb và rồi đến “làm việc chung” tại những không gian làm việc mở thường gọi là co-working space.
Không gian chung tại Tiktak Coworking Space
Trào lưu đang lên
Mô hình co-working space là nơi cung cấp chỗ làm việc chung, thoải mái, năng động và đầy đủ những nhu cầu tiện ích của một văn phòng truyền thống như phòng họp, máy in, dịch vụ lễ tân văn phòng, bếp ăn… Co-working space dễ bị lầm tưởng với nhiều mô hình như chia sẻ văn phòng (shared office), vườn ươm, làm việc ở quán cà phê… Tuy nhiên, một co-working space thực thụ gồm 2 phần: tiện ích và cộng đồng. Nói cách khác, không phải cứ có không gian, chia nhỏ ra cho thuê là thành co-working space.
Co-working space xuất hiện từ thập niên 1990 tại Đức, sau đó lan rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới. Đông Nam Á đang là nơi co-working space phát triển mạnh mẽ với hơn 10.000 không gian đang hoạt động tính đến hết năm ngoái. Một vài tập đoàn đa quốc gia cũng đang thiết lập góc co-working space trong văn phòng để kích thích ý tưởng sáng tạo của nhân viên.
Tại Việt Nam, trào lưu này nóng trở lại từ khi tinh thần startup lên ngôi. Nhất là khi nơi mà cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama hay CEO Google Sundar Pichai tiếp xúc với giới trẻ khi thăm Việt Nam là những co-working space có tiếng. Theo báo cáo chuyên đề của Công ty CBRE, tính đến hết nửa đầu năm 2018, tại Hà Nội và TP.HCM, có hơn 30 đơn vị co-working space hoạt động tại 30 địa điểm cung cấp khoảng 60.000m2 diện tích làm việc cho cộng đồng.
Tại Việt Nam, 91% người sử dụng không gian làm việc chung thuộc thế hệ Y (dưới 35 tuổi). Vừa mới ra đời không lâu nhưng Tiktak Co-working Space đang chứng minh một vị thế của mình trên thị trường với diện tích gần 2000m2, tỉ lệ lấp đầy khoảng 70%, gồm 36 phòng làm việc riêng.
Tiktak coworking space không cho thuê dựa trên diện tích hoạt động mà cung cấp từng gói dịch vụ theo nhu cầu để giúp startup tập trung vào sản phẩm mà không phân tâm bởi những hoạt động không tên. Phòng riêng (5 chỗ ngồi, 12m2) có giá thuê chỉ từ 11 triệu đồng/tháng trở lên. Một chỗ ngồi cố định có giá từ 1,9-3,9 triệu đồng/tháng, gói cho thành viên làm việc linh hoạt 3 ngày/tháng có giá 195.000 đồng.
Phần lớn nguồn thu của co-working space đến từ chi phí cho thuê không gian làm việc, một số nơi có thêm dịch vụ bán đồ ăn thức uống, cho thuê địa điểm sự kiện, phí kết nối, tư vấn startup…Thị trường này đang là sân chơi của những co-working space theo chuỗi, có định hướng dài hạn và nguồn lực lớn. Điểm chung của những mô hình này là tham vọng không dừng lại ở cung cấp công năng cơ bản.
Ươm mầm ý tưởng kinh doanh
Các startup tìm đến co-working space không đơn thuần là một nơi làm việc mà còn để mở rộng mối quan hệ, nắm bắt được xu hướng của những ngành nghề khác, thậm chí săn đầu người và nhất là có được sự để mắt của mạng lưới quỹ đầu tư đứng sau co-working space. Bản thân nhà sáng lập của các co-working space như Nam Đỗ (UP), Trung Tín (Dreamplex), Vũ Văn Thành (Tiktak) cũng là những nhà đầu tư thiên thần.
Cơ sở vật chất chỉ là phần xác, còn phần hồn của một co-working space là cần thời gian và công sức để xây dựng được cộng đồng, điểm phân biệt sức hút của mô hình này với mô hình khác. Đó là lý do tại các không gian làm việc chung có chức danh khá lạ tai là Quản lý cộng đồng (Community Manager) với công việc là nắm rõ thông tin, kết nối thành viên khi nhận thấy khả năng hợp tác giữa họ qua các buổi sinh hoạt chung. Không gian tại các co-working space cũng thường được bố trí để các thành viên tương tác với nhau một cách tự nhiên, tổ chức những chương trình hội thảo, workshop để cung cấp kiến thức và kinh nghiệm cho startup.
Giúp giảm chi phí vận hành là một trong những lý do chính để co-working space phát triển, giúp tiết kiệm từ 30-65% cho doanh nghiệp so với tự thuê, đầu tư và vận hành một văn phòng truyền thống. Ví dụ, một công ty thuê văn phòng bình thường với quy mô 90m2 nhưng bỏ ra tới 25m2 cho phòng họp và chỉ sử dụng trung bình 1 lần/tuần. Trong khi đặt văn phòng tại co-working space, chỉ cần thuê một phòng làm việc và sử dụng phòng họp chia sẻ với những công ty khác, sẽ phù hợp cho những bộ máy quy mô nhỏ thường biến động về nhân sự.
Tốc độ phát triển của mô hình này trên thế giới là 53%/năm trong 5 năm qua, còn nguồn cung co-working tại Việt Nam đang tăng trung bình 58%/năm. Theo CBRE, không gian làm việc chung hiện vẫn còn là ngách thị trường thông thoáng và chưa chứng kiến sự gia nhập của các thương hiệu ngoại nên vẫn còn đất tăng trưởng